Theo đó Ông Nguyễn Đức Tú – Công chứng viên hợp danh đồng thời là Trưởng Văn phòng (là người đại diện theo pháp luật), Thẻ công chứng viên số 04/CCV do Sở Tư pháp tỉnh Bình Phước cấp ngày 27/4/2016. Ông Nguyễn Đức Toàn – Công chứng viên hợp danh, Thẻ công chứng viên số 212/CCV do Sở Tư pháp tỉnh Bình Phước cấp ngày 30/8/2021.
Theo báo cáo của Văn phòng, trong thời kỳ thanh tra từ ngày 01/01/2021 đến ngày 31/10/2022, các hồ sơ về công chứng hợp đồng, giao dịch do các Công chứng viên ký và thực hiện công chứng. Công chứng viên Nguyễn Đức Tú: 21.527 hồ sơ công chứng, Công chứng viên Nguyễn Đức Toàn: 01 hồ sơ công chứng. Hầu hết các hồ sơ công chứng trong niên độ thanh tra đều do Công chứng viên Nguyễn Đức Tú thực hiện công chứng hợp đồng, giao dịch. Riêng Công chứng viên Nguyễn Đức Toàn chỉ thực hiện công chứng 01 hợp đồng, giao dịch.

Văn Phòng Công chứng Hớn Quản Chứng viên không tuân thủ trình tự làm việc
Hồ sơ công chứng của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch do Công chứng viên Nguyễn Đức Tú ký chứng nhận không có đầy đủ hoặc không có Phiếu yêu cầu công chứng (YCCC) của người tham gia giao dịch, hợp đồng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 40 và khoản 1 Điều 41 Luật Công chứng năm 2014.
Đối với việc không có đầy đủ Phiếu YCCC của người tham gia giao dịch trong năm 2021 có hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 05669 lập ngày 14/7/2021, năm 2022 gồm các hồ sơ như: Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ số 4518 lập ngày 20/4/2022, tương tự Hồ sơ công chứng gồm các số như: 4516, 6181, 7185, 7186, 7902, 7918, 8470, 8471, 8472,...
Phiếu YCCC của người tham gia hợp đồng, giao dịch trong Hồ sơ công chứng không ghi đầy đủ thông tin về một số nội dung như: danh mục các giấy tờ kèm theo/họ và tên người nhận Phiếu YCCC/chữ ký của người YCCC theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 40 Luật Công chứng năm 2014: “Phiếu yêu cầu công chứng, trong đó có thông tin về họ tên, địa chỉ người yêu cầu công chứng, nội dung cần công chứng, danh mục giấy tờ gửi kèm theo; tên tổ chức hành nghề công chứng, họ tên người tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chúng, thời điểm tiếp nhận hồ sơ”.
Cụ thể các Hồ sơ công chứng do Công chứng viên Nguyễn Đức Tú ký chứng nhận như: Năm 2021 gồm các hồ sơ như: HĐCN QSDĐ số 05669 ngày 14/7/2021 (Phiếu YCCC không ghi họ tên người tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng, Tương tự về việc Phiếu YCCC của người tham gia hợp đồng, giao dịch không ghi họ tên người tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng trong Hồ sơ công chứng gồm các số: từ 2639 đến 2704, từ 5656 đến 5669, từ 6552 đến 6560.
Năm 2022 gồm các hồ sơ như: Giấy ủy quyền số 02333 lập ngày 08/3/2022 (Phiếu YCCC không ghi thông tin về họ tên người tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng; Hợp đồng ủy quyền số 02334 lập ngày 08/3/2022 Phiếu YCCC không ghi thông tin về họ tên người tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng và Phiếu YCCC của không ghi các thông tin như: danh mục giấy tờ gửi kèm theo; họ tên người tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng. Tương tự về việc Phiếu YCCC không ghi thông tin về: nội dung cần công chứng/danh mục các giấy tờ kèm theo/họ và tên người nhận Phiếu YCCC/chữ ký của người YCCC trong các hồ sơ công chứng gồm các số như: 0484, 2319, 2335, 2336, 2785, 2786, 2787, 2788, 2789, 2790, 2791, 2792, 3360, 3363, 3364, 3366, 4385, 4384, 4385, 4386, 4387, 4388, 4389, 4390, 4391, 4392,4393, 4394, 4395, 4396, 4397, 6180, 6184 đến 6190, 9556, 9557, 11814,...

Công Chứng Viên Nguyễn Đức Tú bất chấp quy định của pháp luật đối với văn bản thỏa thuận phân chia di sản
Tại điểm a khoản 1 Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về người thừa kế theo pháp luật: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.
Tại khoản 2 và khoản 3 Điều 57 Luật Công chứng năm 2014 quy định:
Khoản 2. Trường hợp di sản là quyền sử dụng đất hoặc tài sản pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong hồ sơ yêu cầu công chứng phải có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản của người để lại di sản đó.
Trường hợp thừa kế theo pháp luật, thì trong hồ sơ yêu cầu công chúng phải có giấy tờ chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản và người được hưởng di sản theo quy định của pháp luật về thừa kế. Trường hợp thừa kế theo di chúc, trong hồ sơ yêu câu công chứng phải có bản sao di chúc.
Khoản 3. Công chứng viên phải kiểm tra để xác định người để lại di sản đúng là người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản và những người yêu cầu công chứng đúng là người được hưởng di sản; nếu thấy chưa rõ hoặc có căn cứ cho rằng việc để lại di sản và hưởng di sản là không đúng pháp luật thì từ chối yêu cầu công chứng hoặc theo đề nghị của người yêu cầu công chứng, công chứng viên tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giảm định....”
Tuy nhiên, Công chứng viên ký chứng nhận công chứng một số Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế theo pháp luật mà không có giấy tờ chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản và người được hưởng di sản trong trường hợp thừa kế theo pháp luật.
Cụ thể, Hồ sơ công chứng của Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 8520 ngày 30/6/2022 Công chứng viên Nguyễn Đức Tú: Người để lại di sản thừa kế là ông TĐT (sinh năm 1915, chết ngày 19/5/2010 theo trích lục khai tử số 95/TLKT-BS do UBND xã Đồng Nơ, huyện Hớn Quản cấp ngày 22/6/2022) và bà PTT (sinh năm 1921, chết ngày 11/6/2010 theo Giấy chứng tử số 19 do UBND xã Tân Khai (nay là thị trấn Tân Khai) cấp ngày 22/5/2012), hai người này chết không để lại di chúc, không để lại nghĩa vụ nợ. Di sản thừa kế. Phần quyền sử dụng đất thuộc 37 Giấy chứng nhận QSDĐ cấp cho hộ ông TĐC – sinh năm 1970, địa chỉ các thửa đất cùng tọa lạc tại khu phố 3, thị trấn Tân Khai, huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước; Nguồn gốc sử dụng đất: Công nhận quyền sử dụng đất như giao đất không thu tiền sử dụng đất.
Nội dung tự khai trong Bản tường trình về quan hệ nhân thân của ông TĐC có chứng thực chữ ký của UBND thị trấn Tân Khai vào ngày 23/6/2022 không thể hiện thông tin cá nhân về cha mẹ đẻ của ông TĐT và cha mẹ đẻ của bà PTT là ai, tên gì, hiện đang ở đâu, còn sống hay đã chết ? Tuy nhiên, ngày 06/6/2022, Công chứng viên Nguyễn Đức Tú đã lập Biên bản xác minh tại VPCC Hớn Quản về nội dung này với sự có mặt và lời trình bày tự khai của người yêu cầu công chứng là ông TĐC và có mời người làm chứng là bà Nguyễn Thị Kim Loan (nhân viên VPCC Hớn Quản) để tự xác nhận về sự kiện cha mẹ đẻ của ông TĐT và bà PTT đã chết trước người để lại di sản là ông Thịnh và bà Thảo, trong khi đó ông Thịnh và bà Thảo có nguyên quán tại thị trấn Rừng Thông, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Như vậy, việc VPCC Hớn Quản lập Biên bản xác minh ngày 06/6/2022 để ghi nhận sự kiện cha mẹ đẻ của ông TĐT và bà PTT đã chết (người thừa kế đã chết) trước người để lại di sản là ông Thịnh và bà Thảo (cũng đã chết) chỉ dựa trên lời trình bày của người yêu cầu khai nhận di sản thừa kế là chưa khách quan và không phù hợp với quy định tại khoản 5 Điều 40 và khoản 3 Điều 57 Luật Công chứng năm 2014.
Bên cạnh đó, Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 8520 ghi nhận nội dung “ông TĐP và ông TVV là con ruột của ông TĐT - chết ngày 19/5/2010 và bà PTT - chết ngày 11/6/2010 (người chết để lại di sản)”. Tuy nhiên, Hồ sơ công chứng không có giấy tờ để chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản là ông TĐT và bà PTTvới người được hưởng di sản là ông TĐP – sinh năm 1960 và ông TVV – sinh năm 1950 (không giấy tờ chứng minh quan hệ cha mẹ đẻ và con đẻ). Do đó, việc Công chứng viên Nguyễn Đức Tú ký chứng nhận công chứng Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 8520 ngày 30/6/2022 khi không có giấy tờ để chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản với người được hưởng di sản mà chỉ dựa vào Sơ yếu lý lịch và Bản tường trình về quan hệ nhân thân của ông TĐC có chứng thực chữ ký của UBND thị trấn Tân Khai vào ngày 23/6/2022 là chưa phù hợp theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 và khoản 2, 3 Điều 57 Luật Công chứng năm 2014. Bà Nguyễn Thị Kim Loan là người làm chứng nhưng hồ sơ không có giấy tờ chứng minh bà Loan đã đủ 18 tuổi là không phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 47 Luật Công chứng năm 2014.
Hồ sơ công chứng của Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 8470 ngày 28/6/2022 (CCV Nguyễn Đức Tú):
Hồ sơ công chứng ghi nhận nội dung: Di sản thừa kế là Giấy chứng nhận QSDĐ số AO 619053, số vào sổ cấp GCN số H-03433 do UBND huyện Bình Long nay là thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước cấp ngày 12/02/2009 cho hộ bà NTN và ông NĐV (Thửa đất số: 8; Tờ bản đồ số: 11; Diện tích: 14748,4 m2; Địa chỉ thửa đất: ấp Xa Cam 1, xã Thanh Bình, huyện Bình Long - nay là khu phố Xa Cam 1, phường Hưng Chiến, thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước); Người chết để lại di sản: ông NĐV – sinh năm 1959, đã chết ngày 31/01/2021; Hàng thừa kế thứ nhất gồm: ông NĐN (cha đẻ, đã chết năm 2019), bà NTD (mẹ đẻ, đã chết năm 2011), bà NTN (vợ), ông NĐN (con đẻ), bà NTP (con đẻ), bà NTH (con đẻ).
Tuy nhiên, Hồ sơ công chứng không có giấy tờ để chứng minh mối quan hệ giữa người để lại di sản là ông NĐV (chết ngày 31/01/2021) với người được hưởng di sản là ông NĐN và bà NTD (cha mẹ đẻ của ông NĐV). Bên cạnh đó, Công chứng viên Nguyễn Đức Tú ký chứng nhận công chứng Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 8470 nhưng chỉ căn cứ vào Bản tường trình về quan hệ nhân thân có chứng thực chữ ký của UBND phường Phú Thịnh, thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước là nơi cấp Trích lục khai tử cho ông NĐV, trong khi đó Trích lục khai tử của ông NĐN và bà NTD lại do UBND phường Hưng Chiến, thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước cấp.
Do đó, việc Công chứng viên Nguyễn Đức Tú ký chứng nhận công chứng Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 8470 ngày 28/6/2022 là chưa phù hợp theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 40, khoản 1 Điều 41 và khoản 2, 3 Điều 57 Luật Công chứng năm 2014 và điểm a khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015. Tương tự: Hồ sơ công chứng của Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 8471 và 8472 cùng ngày 28/6/2022 (do CCV Nguyễn Đức Tú ký chứng nhận).
Hồ sơ công chứng lưu bản sao của bản sao Giấy khai sinh của bà NTH và bà NTP. Như vậy, Công chứng viên Nguyễn Đức Tú không kiểm tra, đối chiếu bản chính giấy tờ (Giấy khai sinh của bà NTH và bà NTP) trong hồ sơ công chứng theo quy định trước khi ghi lời chúng, ký vào từng trang của Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 8470 ngày 28/6/2022 là chưa phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 40 và khoản 1, 3 Điều 41 Luật Công chứng năm 2014: "3. Người yêu cầu công chứng tự đọc dự thảo hợp đồng, giao dịch hoặc công chứng viên đọc cho người yêu cầu công chúng nghe. Trường hợp người yêu cầu công chứng đồng ý toàn bộ nội dung trong dự thảo hợp đồng, giao dịch thì ký vào từng trang của hợp đồng, giao dịch. Công chứng viên yêu cầu người yêu cầu công chứng xuất trình bản chính của các giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này để đối chiếu trước khi ghi lời chứng, ký vào từng trang của hợp đồng, giao dịch". Tương tự, Hồ sơ công chứng của Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 8471 và 8472 cùng ngày 28/6/2022 (CCV Nguyễn Đức Tú).
Hồ sơ công chứng của Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 11469 ngày 19/9/2022 (CCV Nguyễn Đức Tú): Không có giấy tờ chứng minh cha đẻ và mẹ đẻ của ông NKH - sinh năm 1945 (người chết để lại di sản) là gồm những ai và còn sống hay đã chết hoặc chết trước hay sau ông Hiếu; đồng thời, Công chứng viên Nguyễn Đức Tú không tiến hành xác minh với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về quá trình nhân thân của ông NTK (trong đó có cha đẻ và mẹ đẻ) mà chỉ căn cứ vào bản tự khai Tường trình về quan hệ nhân thân của ông NTK - sinh năm 1980 (là con của NKH - người chết để lại di sản) để thực hiện công chứng Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 11469. Do đó, việc Công chứng viên Nguyễn Đức Tú ký chứng nhận công chứng Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 11469 ngày 19/9/2022 là chưa phù hợp theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 40, khoản 1 Điều 41 và khoản 2, 3 Điều 57 Luật Công chứng năm 2014 và điểm a khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Bài tiếp theo: Văn phòng Công chứng Hớn Quản: Công chứng viên có được đào tạo pháp luật không!
Trần Như (thực hiện theo kết luận Thanh tra của Sở Tư Pháp tỉnh Bình Phước)