Triều Trần, ngay đời vua Trần Thái Tông, việc giáo dục và khoa cử đã tổ chức chu đáo hơn triều Lý. Năm 1232, ngoài phép thi Tam trường như đời trước lại mở thêm khoa thi Thái học sinh, chia làm tam giáp để phân biệt cao thấp.
Thi Thái học sinh: là khoa thi cho Thái học sinh, tức là các học sinh ở nhà Thái học, cũng gọi là nhà Quốc học, nói cách khác là sinh viên ở trường đại học quốc gia duy nhất của thời đó. Người thi đỗ các khoa thi này gọi là đỗ Thái học sinh.
Thi Đại tỷ: còn gọi là Đại tỷ thủ sĩ được tổ chức cho năm loại đối tượng:
Thuộc quan ở Tam quán (cho con cái các quan được lấy vào vừa làm việc vừa học tập ở ba "quán" (ngày nay là viện) như Sùng văn quán, Nho lâm quán, Tú lâm cục),
Thái học sinh,
Thị thần học sinh (con cái các quan được lấy vào vừa làm việc vừa học tập ở 6 cục Ngự tiền cận thị chi hậu, ở Trung thư giám),
Tướng phủ học sinh (con cái của các thân vương, thân công, hoàng tử, công chúa, các tướng công hầu bá thuộc họ hàng thân thích của nhà vua được nhà nước cử học quan đến dạy tại phủ đệ của mình),
Người làm quan có tước phẩm.
Năm 1236, triều đình chọn nho sinh thi đỗ vào hầu vua, sau định thành lệ. Năm 1239, thi Thái học sinh, chia thứ bậc Tam giáp. Năm 1247, định niên hạn thi đại tỷ để lấy học trò, cứ 7 năm một lần.
Khoa thi tháng 2, năm 1247, thi Đại tỷ, lại đặt ra tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn và Thám hoa) ở trên Thái học sinh. Kỳ thi này lấy 48 người, xuất thân theo thứ bậc. Trước đây, hai khoa trước chỉ chia bậc Giáp, Ất, nay mới lấy Tam khôi.
Tháng 8 năm 1247, thi tam giáo bắt học sinh phải thi cả ba môn Nho học, Phật học và Lão học.
Đây là kỳ thi Tam Khôi đầu tiên (gọi là thi Đình, nhưng thi Đình lúc này còn là kỳ thi cuối cùng của khoa thi Đại tỷ, do triều đình tổ chức, chưa tách ra thành một khoa thi riêng) để chọn Trạng nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa. Trạng nguyên của khoá đầu tiên này là Nguyễn Hiền, 13 tuổi, người huyện Thượng Nguyên. Lê Văn Hưu người huyện Đông Sơn18 tuổi, đỗ Thám hoa; đỗ Bảng nhãn là Đặng Ma La, 14 tuổi, người ở Mỹ Lương
Năm Nguyên Phong thứ 6 (1256) mở khoa thi lấy Kinh Trạng nguyên và Trại Trạng nguyên, mỗi bên một người cho đỗ xuất thân. Trước kia do châu Hoan, Ái ở xa nhân tài không nhiều bằng ở các kinh trấn, cho nên mỗi khoa thi lấy người giỏi nhất về bên trại gọi là Trại trạng nguyên, ngang hàng với Kinh trạng nguyên để tỏ ý khuyến khích. Kỳ này lấy 43 người đỗ Thái học sinh
Năm 1266 đời vua Trần Thánh Tông, mở khoa thi lấy Kinh trạng nguyên, Trại trạng nguyên, Thái học sinh 47 người, xuất thân theo thứ bậc. Năm Ất Hợi (1275), lại hợp Kinh và Trại làm một, lấy 3 người đỗ Tam khôi và 27 người đỗ Thái học sinh.
Năm 1305 đời vua Trần Anh Tông thi học trò trong nước, lấy Tam khôi, Hoàng giáp và Thái học sinh 44 người. Mạc Đĩnh Chi đỗ Trạng nguyên, Nguyễn Trung Ngạn đỗ Hoàng giáp. Tên gọi Hoàng giáo mới bắt đầu từ đây
Phép thi, trước thi ám tả Y quốc thiên và Mục thiên tử truyện để loại bớt.; rồi đến thi kinh nghi (hỏi những điều ngờ trong các kinh), kinh nghĩa, thơ dùng thể cổ thì ngũ ngôn trường thiên, lấy 4 chữ tài, nan, xạ, trĩ làm vẫn, phú dùng thể 8 vần. Trường thứ 3 thi chiếu, chế, biểu. Trường thứ tư thi văn sách.
Kỳ thi năm 1305, ai đỗ Tam khôi sẽ được dẫn ra cửa Long Môn, Phượng Thành đi chơi phố 3 ngày. Trạng nguyên thì bổ Thái học sinh hỏa dũng thủ, sung chức nội thư gia; Bảng nhãn thì bổ chi hậu bạ thư; có mạo sam. sung chức nội lệnh thư gia; Thám hoa thì bổ hiệu thư, có quyền miện và được 2 tư; còn 330 người được lưu học. Cùng năm có chiếu dùng bảy khoa để thi học trò trong nước.
Năm 1314, thi Thái học sinh, ai đỗ cho tước bạ thư lệnh. Năm 1345, thi Thái học sinh, phép thi dùng ám tả cổ văn, kinh nghĩa, thơ phú. Năm 1363 thi học trò, lấy người có văn nghệ vào làm trong quán các. Năm 1374 thi Tiến sĩ ở điện đình, lấy đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáo, Cập đệ và đồng Cập đệ 44 người, xuất thân theo thứ bậc khác nhau. Năm 1381 thi Thái học sinh. Năm 1384 thi Thái học sinh ở chùa Vạn Phúc, núi Tiên Du. Năm 1393, thi Thái học sinh.
Năm 1396, có chiếu định cách thức thi cử nhân: cứ năm trước thi Hương thì năm sau thi Hội, ai đỗ thi Hội thì nhà vua ra thi một đề văn sách để định thứ tự.
Buổi đầu đời Trần, thi Thái học sinh chia ra thượng trại, hạ trại và thi Đình chia ra kinh và trại, lấy đỗ có Tam khôi, nhưng văn thể không nhất định.
Theo Phan Huy Chú đây là phép thi của nhà Nguyên, dùng văn thể bốn trường, bỏ bài ám tả cổ văn.
Trường nhất thi một bài kinh nghĩa, có những đoạn phá, tiếp ngữ, tiểu giảng, nguyên đề, đại giảng, kết thúc làm bài hạn 500 chữ trở lên.
Trường nhì thi một bài thơ dùng Đường luật, một bài phú dùng cổ thể, hoặc thể ly tao hoặc thể văn tuyển, cũng hạn 500 chữ trở lên.
Trường ba thi một bài chiếu dùng thể đời Hán, chế biểu mỗi thứ một bài, dùng thể tứ lục đời Đường.
Trường tư thi văn sách một bài, ra đề về kinh sử thời vụ, 1000 chữ trở lên.
Đời vua Trần Duệ Tông, năm 1374, Lê Quý Ly cải cách phép thi đổi Thái học sinh làm Tiến sĩ cho Tam khôi và Hoàng giáp là cập đệ xuất thân; cho Tiến sĩ là đồng cập đệ xuất thân. Năm 1397, Lê Quý Ly định lại bốn trường và bỏ môn ám tả; nhất trường thi kinh nghĩa; nhị trường thi thơ phú; tam trường thi chiếu, chế biểu; tứ trường thi văn sách. Lê Quý Ly lại bắt đầu định phép thi Hương; có trúng tuyển cử nhân mới được dự thi Hội năm sau, ai trúng thi Hội thì thi một bài văn sách nữa để định cao thấp; gọi là thi Đình.
Trước kia nhà quốc học chỉ đặt ở Kinh đô; còn trong dân gian thì việc học hành do tự ý nhân dân tổ chức. Năm 1398, Hồ Quý Ly đặt quan Giáo thụ tại các châu, các phủ những lộ Sơn Nam (nay là Nam Định); Ninh bắc (nay là Bắc Ninh) và Hải đông (nay là Hải dương); tùy theo châu phủ lớn nhỏ mà cấp học điền là 15, 12 hay 10 mẫu. Ở mỗi lộ có quan Đốc học dạy sinh đồ, cứ mỗi năm thì chọn những kẻ tuấn tú cống về triều để thi hạch.
Phép khoa cử đời Trần đến đây mới đủ văn tự bốn trường, đến nay còn theo, không thay đổi được. Chọn nhân tài bằng văn học, không gì bằng phép này.
- Lời bàn của sử thần họ Ngô chéo trong sách Lịnh triều hiến chương chí
Sang triều Trần, Nho học lại càng thịnh hơn trước, vua Trần Thái Tôn mở khoa thi Thái học sinh, khoa tam khôi và lập nhà Quốc học để giảng tứ thư, ngũ kinh
- Việt văn hóa sử cương, Đào Duy Anh
Phép thi bấy giờ, trải nhiều lần cải biến nên đã tinh tường. Sang triều Lê đại khái đều phỏng như thế.
- Việt Năm văn hóa sử cung, Đào Duy Anh
Theo thể lệ cũ, Thái học sinh cứ 7 năm thi một lần đỗ 30 người, thi Trạng nguyên không có thể kệ nhất định, những người trong Tam quán: thuộc quan học sinh, thi thần học sinh, tường phủ học sinh và người có tước đều được vào thi, thế là thi Thái học sinh cũng theo như thi Đại tị, cứ 7 năm mở một khoa, khoa này không thấy nói cho bao nhiêu người đỗ Thái học sinh
- Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn
Tổng Hợp