Không đánh giá đúng bối cảnh ngập lụt thực tế khu vực Long Bình
Một trong những hạn chế lớn nhất của báo cáo TĐMT là cách tiếp cận phiến diện đối với hiện trạng ngập lụt khu vực. Báo cáo chủ yếu dựa vào số liệu thủy văn từ trạm Phú An trên sông Sài Gòn – một trạm quan trắc có ý nghĩa đối với mực triều và thủy văn khu vực rộng, nhưng hoàn toàn không phản ánh đầy đủ tình trạng ngập cục bộ đô thị tại phường Long Bình.
Thực tế, ngập lụt đô thị không chỉ đến từ triều cường hay mưa lớn diện rộng, mà còn bắt nguồn từ những biến đổi vi mô: san lấp kênh rạch, thu hẹp hành lang thoát nước, bê tông hóa bề mặt đất, dồn lưu lượng nước mưa về các tuyến cống vốn đã quá tải. Đây chính là những yếu tố đặc thù tại nhiều khu dân cư ở Long Bình – đặc biệt là khu vực đường số 13, nơi người dân phản ánh tình trạng ngập kéo dài nhiều năm nay.
Theo ghi nhận thực tế, mỗi khi mưa lớn, nước tại khu vực này dâng rất nhanh nhưng rút chậm, để lại bùn lầy, ô nhiễm và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt, sản xuất. Đáng chú ý, nhiều hộ dân cho rằng tình trạng ngập trở nên trầm trọng hơn sau khi một số dự án nhà ở trong khu vực triển khai san lấp mặt bằng và rạch thoát nước tự nhiên. Tuy nhiên, những phản ánh này hoàn toàn không được đối chiếu, phân tích hay đánh giá trong báo cáo TĐMT.
Việc không đặt dự án trong bối cảnh ngập lụt thực tế của khu vực, không phân tích tác động cộng hưởng giữa dự án và các công trình đã, đang tồn tại, là vi phạm nguyên tắc đánh giá môi trường “tổng hợp – liên vùng” theo Luật Bảo vệ môi trường 2020. TĐMT không thể chỉ dừng lại ở việc chứng minh dự án “không gây ngập trong phạm vi nội khu”, mà phải làm rõ dự án sẽ tác động như thế nào đến toàn bộ hệ thống thoát nước khu vực xung quanh.
Lỗ hổng nghiêm trọng trong đánh giá việc san lấp kênh rạch và hành lang thoát nước
Một điểm đáng lo ngại khác là báo cáo TĐMT không trả lời rõ ràng những câu hỏi cốt lõi liên quan đến kênh rạch và hành lang thoát nước tự nhiên. Báo cáo không nêu cụ thể: có hay không việc san lấp rạch tự nhiên trong quá trình triển khai dự án; nếu có, lưu lượng nước trước đây được tiêu thoát qua rạch sẽ được chuyển hướng đi đâu; và hệ thống thoát nước hiện hữu bên ngoài dự án có đủ năng lực tiếp nhận hay không.
Các sơ đồ thoát nước mưa trong báo cáo chủ yếu mang tính minh họa nội khu, tập trung vào việc dẫn nước ra các tuyến cống hiện hữu mà không hề đánh giá năng lực tiếp nhận của hệ thống bên ngoài. Trong khi đó, Luật Bảo vệ môi trường 2020 quy định rõ: đánh giá tác động môi trường phải xem xét khả năng chịu tải của môi trường tiếp nhận, bao gồm hệ thống thoát nước khu vực, sông rạch, kênh mương và khu dân cư lân cận.
Ngập lụt không xảy ra “trong hàng rào dự án”. Nước mưa sau khi được thu gom sẽ chảy ra ngoài, hòa vào mạng lưới thoát nước chung. Nếu mạng lưới này đã quá tải, dự án – dù được thiết kế nội khu bài bản – vẫn có thể trở thành tác nhân làm gia tăng ngập cho cộng đồng xung quanh. Việc né tránh đánh giá tác động này cho thấy báo cáo TĐMT đang bỏ qua một trong những rủi ro môi trường – xã hội lớn nhất của dự án.
Không chỉ dừng lại ở các vấn đề kỹ thuật, báo cáo TĐMT còn bộc lộ cách tiếp cận hời hợt đối với tác động xã hội. Trong phần đánh giá đối tượng bị tác động, báo cáo chỉ liệt kê chung chung rằng “khu vực xung quanh có khu dân cư, trường học, bệnh viện…”, nhưng không hề định lượng cụ thể có bao nhiêu hộ dân bị ảnh hưởng trực tiếp, bao nhiêu người sống trong vùng có nguy cơ ngập gia tăng, hay mức độ tổn thương của các nhóm dễ bị ảnh hưởng như người già, trẻ em, hộ kinh doanh nhỏ lẻ.
Đáng nói hơn, báo cáo không phân tích thiệt hại sinh kế, an toàn giao thông, sức khỏe cộng đồng hay nguy cơ xung đột lợi ích giữa dự án và cộng đồng dân cư hiện hữu. Đây là những nội dung cốt lõi của đánh giá tác động xã hội, đặc biệt trong bối cảnh Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã mở rộng khái niệm “môi trường” bao gồm cả con người, đời sống và các quan hệ xã hội.
Cách tiếp cận thuần túy “môi trường kỹ thuật” – chỉ chú trọng nước, khí, tiếng ồn trong phạm vi dự án – đã trở nên lỗi thời và không còn phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững. Một dự án nhà ở không thể được xem là “ít tác động” nếu nó làm gia tăng rủi ro ngập lụt, gây bất ổn đời sống cho hàng trăm hộ dân xung quanh.
Tham vấn cộng đồng: dấu hiệu hình thức, thiếu thực chất
Phần “Kết quả tham vấn cộng đồng” trong báo cáo TĐMT tiếp tục đặt ra nhiều nghi vấn. Nội dung tham vấn được trình bày một chiều, hầu như chỉ ghi nhận sự “đồng thuận”, không phản ánh bất kỳ ý kiến phản biện, băn khoăn hay kiến nghị nào từ người dân. Không có nội dung bất đồng, không có ý kiến bị từ chối hoặc chỉ tiếp thu một phần – điều rất hiếm gặp trong thực tế các dự án có tác động môi trường rõ rệt.
Điều này càng khó thuyết phục khi khu vực Long Bình đã tồn tại các khiếu nại, phản ánh liên quan đến ngập úng trong thời gian dài. Người dân là đối tượng chịu tác động trực tiếp, nhưng tiếng nói của họ lại không được phản ánh trung thực trong báo cáo TĐMT. Đây là dấu hiệu cho thấy quá trình tham vấn có nguy cơ chỉ dừng ở mức “đúng quy trình”, chưa đáp ứng tinh thần “tham gia thực chất của cộng đồng” mà pháp luật môi trường hiện hành yêu cầu.
Từ những phân tích trên, có thể thấy báo cáo TĐMT dự án Khu nhà ở tại phường Long Bình còn nhiều lỗ hổng nghiêm trọng, cả về kỹ thuật thoát nước – ngập lụt lẫn đánh giá tác động xã hội và tham vấn cộng đồng. Việc phê duyệt một báo cáo TĐMT như vậy không chỉ tiềm ẩn rủi ro môi trường, mà còn có thể làm gia tăng mâu thuẫn xã hội, khi quyền lợi và tiếng nói của cộng đồng dân cư bị xem nhẹ.
Các cơ quan thẩm định cần yêu cầu chủ đầu tư bổ sung đánh giá ngập lụt cục bộ, làm rõ vấn đề san lấp kênh rạch, đánh giá khả năng chịu tải của hệ thống thoát nước khu vực và tổ chức lại tham vấn cộng đồng một cách minh bạch, thực chất. Chỉ khi đó, TĐMT mới thực sự là công cụ phòng ngừa rủi ro và bảo vệ lợi ích chung, thay vì trở thành một thủ tục hợp thức hóa dự án.
Lê Hiếu